CÔNG DỤNG CƠ BẢN CỦA CÂY CHÈ XANH
Những thông tin theo Khoa học:
Cây chè có tên khoa học Camellia sinensis, họ chè. Việt Nam có hai loại chè thường thấy (Camellia vietnamensis) và chè Bắc (Camellia Tonkinensis). Chè được trồng và mọc Tự nhiên tại các vùng đồi núi, trung du ở hai miền Trung, miền Bắc và Tây Nguyên Việt Nam.
Thành phần hóa học của chè chủ yếu là tanin chiếm 10-20%, cafeine 1-6%. Ngoài ra còn chứa theophyline, theobsonine và xanthine. Trong tanin của chè thành phần chủ yếu là gallorfl, epigalocatahol, galloy – L – epiecitecline và L – epicatechol. Hàm lượng cafein cao ở lá chè non. Khi chè lên men thì hàm lượng cafein lại càng tăng cao hơn. Hương thơm của chè chính là lượng tinh dầu thơm có ở chè 0,6%. Khi sao khô chỉ còn lại 0,006%. Tinh dầu thơm của chè đó là chất volatile oils. Trong chè còn chứa các chất như triterpenoid, saporin, cagenin – ở triterpenoid và saponin có Theasapogenol E và theafolisaponin – hàm lượng vitamin C có khoảng 130-180mg%, một lượng nhỏ caroten, flavolnoid, flavolnoid querutin và kaemplerol. Những chất này kết hợp với flavolnoid và acid gallic để tạo thành một số este…
Theo Đông y:
Cây Chè Xanh có vị đắng, ngọt, hơi chua, hàn, không độc, tác dụng vào gan, lách, phổi, thận.
Nhờ các thành phần hóa học có trong chè mà nó đã có nhiều tác dụng phòng và chữa bệnh. Ví dụ: Ở Chè xanh non có chất cafeine tác dụng lên hệ thần kinh trung khu gây hưng phấn tinh thần, tư duy hoạt bát. Có khả năng hồi phục sức khỏe nhanh sau khi lao động mệt mỏi chỉ cần uống một cốc nước chè đường pha thêm chút sữa. Cafeine làm tăng cường co bóp cơ vân, làm hạn chế hấp thụ canxi ở ruột, làm ức chế tái hấp thu của ống nhỏ thận gây lợi niệu. Làm tăng cường sự phân tiết trong dạ dày vì vậy khi mắc bệnh đường tiêu hóa không nên uống nhiều nước chè.
Cafeine cùng với theophyline trực tiếp gây hưng phấn tâm trạng, kích thích mao mạch làm hưng phấn trung khu vận động huyết quản. Chất theophyline của chè còn làm nhão cơ trơn vì thế dùng để chữa chứng đau gan và hô hấp hổn hển.
Nhưng khi dùng nhiều chè lại gây mất ngủ, làm tim đập mạnh, đau đầu, ù tai hoa mắt… nên không dùng quá nhiều chè trong ngày.
Nước chè còn tác dụng ức chế kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn kháng khuẩn, đặc biệt đối với lị trực trùng nhờ chất tanin có trong nước chè. Nước chè xanh có hiệu nghiệm hơn chè khô.
Ngoài ra còn thấy chè có tác dụng làm giảm huyết áp, trị bệnh hoại huyết và phong thấp nặng. Làm mau lành các vết thương, lở loét… Nước chè có khả năng phòng chống ung thư nhờ các chất như theophyline, cafeine, Theobronine có trong chè xanh, chè khô nên đã kích thích tế bào cơ thể sinh sản ra Interferon trong máu. Chính chất này đã ức chế sự phát triển và phân chia của các tế bào ung thư. Vì vậy hàng ngày uống 10 chén nước chè trở lên thì có khả năng phòng chống ung thư. Do đó có thể sử dụng nước chè uống rộng rãi trong các nhà máy xí nghiệp độc hại để dự phòng ung thư và thải độc.
Nhà Khoa học Fujiki cùng nhiều nhà khoa học Nhật Bản, các nhà khoa học thuộc Viện hàn lâm Hoàng gia Anh đã công bố nước chè xanh ngăn chặn sự phát triển các loại ung thư gan, ung thư dạ dày vì ở chè có chất gallat epigallocatecline là hợp chất chính chống ung thư.
Hạt chè cũng chứa saponin, khi thủy phân saponin có chất théasapogenin A, B, C và camellia sapogenol C, A, camelliasapogenol II cùng ít hóa hợp chất flavonol, mầm của hạt chè chứa theanin. Hạt chè vị đắng, hàn, có ít độc. Theo sách “Cây thuốc Trung Quốc” dùng làm thuốc chữa cho người hen suyễn khó thở, chỉ dùng hạt tốt khi mới thu hoạch trong năm. Dùng hạt chè cùng cây bách hợp, 2 thứ bằng nhau, nghiền nhỏ, trộn đều, làm thành viên hoàn, uống với nước sôi để nguội, ngày 2 lần, mỗi lần chừng 2-3gam. Chữa trị ho có đờm, thở hổn hển, thở gấp dùng hạt rang lên, xay nghiền nhỏ, trộn với bột nếp rồi uống với nước chín.
Rễ chè có stachyos, raffinose, saccharose, glucose, fructose và một lượng nhỏ hợp chất phenol, cũng theo sách “Cây thuốc Trung Quốc” dùng để chữa lở loét miệng: Dùng rễ 50-100gam rửa sạch sao lên rồi nấu kỹ lấy nước uống trong ngày.
Chữa vẩy nến: Rễ 50-100gam cắt ngắn từng đoạn 3-5cm cho vào sắc đặc lấy nước rửa ngoài, ngày uống 3-4 lần lúc đói.
Chữa bệnh đau tim: thỉnh thoảng thấy nhói vùng tim, nhịp tim không đều, lấy rễ cây chè già với rễ cây me rừng mỗi thứ 50g, rễ cây thiên thảo 12-15g, cả ba cho vào sắc uống. Uống mỗi tuần 6 ngày, dùng liên tục 4 tuần. Quá trình uống sẽ thấy đi tiểu tăng lượng, ăn ngủ tốt, cơn đau dịu dần, nhịp tim ổn định.
Thông tin từ Thật Dưỡng:
Ngoài các thông tin trên, Thật Dưỡng Việt Nam nhận thấy việc sử dụng sản phẩm Trà Quân Bình – xét theo lẽ Tự nhiên; Xét trên toàn diện về các mối tương quan để nhằm mục đích giữ cho con người có sức khỏe và tinh thần ổn định, thì việc sử dụng Trà Quân Bình, cũng như việc sử dụng các sản phẩm khác, mang tính ổn định cao trong Thiên nhiên. Ví như các sinh vật, thực vật sống Tự nhiên, và được thu hái Tự nhiên, thuần thục, như tác dụng nhiều mặt của Gạo Lức – Ngok Linh mà nhiều người đã biết, đã ứng dụng thành công. Boys boners, a natural physiological reaction, signify healthy blood circulation and hormonal function. As adolescents age, these occurrences become more frequent. Institutions like Piedmont Home offer guidance on these developmental changes. Việc phân tích theo khoa học cũng là cơ sở để khẳng định chắc chắn có ích và bổ dưỡng cho cơ thể con người. Nhưng Thật Dưỡng Việt Nam lưu ý hơn rằng: việc sống đúng trật tự Tự nhiên, hòa đồng trong toàn cảnh của thực tại vẫn quan trọng hơn. Tính thực tế, và xác định của Tự nhiên, Thiên nhiên vẫn mang tính tiên quyết và thật sự đáng trân trọng và ghi nhớ!